Công ty luật TNHH XTVN
Gọi Ngay
+84865766989
Chúng tôi luôn làm việc tận tâm trong mọi  Cuộc gọi ngay bây giờ
Hỏi đáp Khoảng trống pháp lý trong vấn đề quản lý tiền cúng dường, công đức tại các đền, chùa


Tiền công đức, cúng dường tại các đền, chùa và các cơ sở tôn giáo khác là một nguồn thu không nhỏ, được đóng góp tự nguyện từ tín đồ và khách thập phương xuất phát từ lòng tin và mong muốn đóng góp vào việc xây dựng, hỗ trợ hoạt động duy trì và phát triển các công trình mang ý nghĩa tâm linh này. Hiện nay, việc quản lý và sử dụng tiền công đức còn tồn tại nhiều khoảng trống pháp lý, dẫn đến tình trạng thiếu inh bạch, chưa được kiểm soát chặt chẽ.

Điển hình là việc xây dựng, tu sửa, cải thiện cơ sở vật chất chùa, đền nhằm phục vụ hoạt động tín ngưỡng bằng việc kêu gọi sự hỗ trợ từ các nhà hảo tâm và phật tử đóng góp tiền. Tuy nhiên, khi công trình hoàn thiện, việc xây dựng không phù hợp với mong muốn của người đóng góp dẫn đến nhiều mâu thuẫn, tranh chấp đòi lại tiền cúng dường, quyên góp.

1.      Cơ sở pháp lý về việc cúng dường và đòi lại tiền đã quyên góp

Theo quy định pháp luật Việt Nam, việc “cúng dường” thường được hiểu là hành động tự nguyện và không có điều kiện ràng buộc, khi một cá nhân đã tự nguyện cúng dường, số tiền đó về nguyên tắc sẽ không thuộc sở hữu của người cúng dường nữa mà trở thành tài sản của tổ chức tiếp nhận, ở đây là nhà chùa, đền. Căn cứ khoản 6, Điều 7 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo quy định: Tổ chức tôn giáo có quyền “nhận tài sản hợp pháp do tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tự nguyện tặng cho”. Đồng thời, Bộ luật Dân sự 2015 không có quy định cấm, hạn chế hành vi “khất thực” (xin quyên góp) của cá nhân, tổ chức, cũng không quy định chi tiết hành vi “cúng dường” (tặng cho), đều được thực hiện và được pháp luật công nhận. Cụ thể, Bộ luật Dân sự quy định quyền tặng cho là quyền cơ bản của chủ sở hữu tài sản (Điều 194), quy định về giao dịch, hợp đồng tặng cho từ Điều 458 đến Điều 462. Có thể xác định từ góc độ luật pháp, việc cúng dường có giá trí pháp lý nhưng một giao dịch dân sự tặng cho tài sản.

Căn cứ Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hình thức giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự có thể thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như bằng lời nói, hành vi cụ thể hoặc bằng văn bản. Đồng thời, việc cúng dường, công đức tiền tại đền, chùa đáp ứng đủ các quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 thì sẽ hoàn toàn có giá trị pháp lý. Bên cạnh đó, tiền được xác định là động sản, do đó, căn cứ theo Điều 458 Bộ luật Dân sự 2015 về việc tặng cho động sản thì thời điểm có hiệu lực của việc tặng cho tiền là kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản. Vì vậy, ngay từ thời điểm công đức, cúng dường cho đền, chùa thì số tiền đó đã hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của đền, chùa do đó, sẽ không có quyền để đòi lại bởi việc cúng dường, công đức được thực hiện trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện.

Với vụ việc thực tiễn trên, có thể thấy, việc xảy ra tranh chấp khiến người cúng dường đòi lại tiền đã cúng dường là sự việc vô cùng hy hữu. Trên thực tế, để đòi lại tiền cúng dường là rất khó, tuy nhiên, muốn đòi lại tiền đã cúng dường trong trường hợp không đồng ý với cách sử dụng quỹ của nhà chùa thì có thể lập luận rằng số tiền này đã được đóng góp dựa trên cam kết hoặc lời kêu gọi cụ thể từ nhà chùa về mục đích xây dựng. Căn cứ theo Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, nếu như việc tặng cho tiền không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì giao dịch tặng cho này sẽ bị vô hiệu, có thể có căn cứ đòi lại tiền. Nghĩa là, cần lập luận rằng việc cúng dường số tiền cho chùa nhưng kèm điều kiện chùa phải thực hiện xây dựng theo yêu cầu đã đặt ra nhưng chùa không thực hiện đúng. Tuy nhiên, để lập luận được theo hướng này là rất khó, vì không có thỏa thuận ràng buộc nào về hình thức hay thiết kế cụ thể với nhà chùa, việc đòi lại số tiền đã cúng dường có thể sẽ không có cơ sở pháp lý rõ ràng. Đồng thời, nhà chùa là đơn vị quản lý số tiền từ thiện, có trách nhiệm sử dụng số tiền này theo đúng mục đích công khai ban đầu. Nếu nhà chùa đã hoàn tất công trình, hay đã tiến hành thực hiện sử dụng toàn bộ số tiền đúng mục đích, thì về nguyên tắc, chùa không có nghĩa vụ phải hoàn trả lại số tiền đó.

Có thể thấy, Việt Nam chưa xây dựng một hành lang pháp lý cụ thể trong quản lý tiền công đức đã tạo điều kiện cho nhiều vấn đề phát sinh như việc thiếu tính minh bạch trong thu chi tiền công đức, cúng dường; tranh chấp giữa người cúng dường và cơ sở tín ngưỡng; thiếu chế tài rõ ràng với hành vi phạm. Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng những chính sách chặt chẽ và minh bạch trong việc quản lý tiền công đức nhằm bảo vệ niềm tin của người dân vào các cơ sở tín ngưỡng và ngăn ngừa các hành vi lạm dụng. Ví dụ, tại Nhật Bản, các ngôi chùa, đền thờ đều phải thực hiện báo cáo tài chính định kỳ và công khai chi tiết các khoản thu chi để người dân có thể dễ dàng tra cứu. Chính quyền Nhật Bản cũng có các cơ quan giám sát hoạt động tài chính của các cơ sở tín ngưỡng, đảm bảo tính minh bạch và tránh việc lợi dụng tôn giáo để thu lợi cá nhân. Do đó, việc bổ sung các quy định pháp lý về quản lý và giám sát tài chính, xác định quyền và trách nhiệm của các bên liên quan, cùng với áp dụng chế tài xử lý vi phạm là cần thiết và sẽ góp phần tạo ra môi trường tín ngưỡng lành mạnh và phát triển bền vững.

 

 



Công ty luật TNHH XTVN
Hotline: 0865766989
Công ty luật TNHH XTVN Chat FB với chúng tôi
Công ty luật TNHH XTVN