Hiện nay có không ít trường hợp, nam nữ sống
chung với nhau như vợ chồng thậm chí có con chung nhưng không đăng kí kết hôn.
Theo quy định của pháp luật, họ không được công nhận là vợ chồng hợp pháp. Tài
sản do hai bên có được trong thời gian chung sống với nhau cũng không được coi
là tài sản chung của vợ chồng. Nếu họ có nhu cầu được cùng đứng tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thì cơ quan chức năng sẽ giải
quyết vấn đề này như thế nào?
Quyền sở hữu chung tài sản hay nói cách
khác là chế định đồng sở hữu là quyền sở hữu của hai người, hai cá thể đối với
tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất hoặc sở hữu chung theo phần bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản chung đó theo quy định
của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014:
Nếu tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng
mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng như nhà cửa, đất
đai, bất động sản hoặc động sản phải đăng kí quyền sở hữu…thì giấy chứng nhận
quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hay còn gọi là sổ đỏ) phải ghi
tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Như vậy, nếu bất động sản là nhà cửa, đất
đai mà hình thành, tồn tại trong thời kỳ hôn nhân thì đó được coi là tài sản
chung của vợ chồng, đồng nghĩa với việc, sổ đỏ sẽ đứng tên cả hai vợ, chồng.
Trường hợp, nam nữ sống chung với nhau như
vợ, chồng nhưng không đăng kí kết hôn thì quan hệ về tài sản được giải quyết
theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
- Quan hệ tài sản giữa hai người nam và nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo
thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết
theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên
quan.
- Nếu các bên không có thỏa thuận thì sẽ tiến hành giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự cũng như các quy định liên quan có khác. Theo đó, có thể căn cứ Điều 207 Bộ luật Dân sự năm 2015, sở hữu chung được hiểu là sở hữu của nhiều chủ thể với tài sản nhất định, bao gồm: Sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
(Ảnh minh họa)
Như vậy, trong trường hợp hai người nam, nữ
mặc dù chưa đăng ký kết hôn nhưng vẫn hoàn toàn có quyền thỏa thuận để cùng
nhau nhận chuyển nhượng, mua bán bất động sản và cùng đứng tên trên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Đây
sẽ là được coi là tài sản thuộc sở hữu chung theo phần
Về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, theo quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013 có nêu:
Thửa đất có nhiều người chung quyền sử dụng
đất, nhiều người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất thì Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
(hay còn gọi là sổ đỏ) phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sử dụng
đất, người sở hữu chung nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất và cấp cho mỗi người
01 giấy chứng nhận; trường hợp các chủ sử dụng, chủ sở hữu có yêu cầu thì cấp
chung một Giấy chứng nhận và trao cho người đại diện.