+84865766989
Nhằm kịp thời tháo gỡ
khó khăn trong quá trình thực hiện Luật Đầu tư, ngày 03/09/2025
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 239/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số
31/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu
tư (sau đây
gọi là Nghị định số 239/2025/NĐ-CP). Nghị định mới đã bổ sung nhiều
quy định quan trọng, đảm bảo tính ổn định, minh bạch và phù hợp với thực tiễn
hoạt động đầu tư hiện nay.
Hãy cùng Công ty Luật TNHH XTVN tìm hiểu
thông qua bài viết dưới đây!
1. Xác định địa bàn ưu đãi đầu tư theo mô hình chính quyền địa
phương 02 cấp
Căn cứ Điều 21 Nghị định
số 31/2021/NĐ-CP, việc xác định địa bàn ưu đãi đầu tư được thực hiện trong trường
hợp có thay đổi địa giới hành chính do chia, tách, hoặc nâng cấp đơn vị hành
chính cũ đang thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, quy định này chủ yếu áp dụng
cho đơn vị hành chính cấp huyện. Trong khi đó, hiện nay việc sắp xếp, tổ chức lại
đơn vị hành chính được thực hiện theo mô hình hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã). Do
vậy, Điều 21 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP chưa hoàn toàn phù hợp với thực tiễn tổ
chức bộ máy hành chính hiện nay.
Để khắc phục, Nghị định số 239/2025/NĐ-CP
quy định về nguyên tắc xác định địa bàn ưu đãi đầu tư đối với đơn vị hành chính
cấp xã theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Theo đó, các xã thuộc địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc khó khăn trước khi thực
hiện việc sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính sẽ tiếp tục được xác định là địa
bàn có điều kiện tương ứng sau khi sắp xếp.
Đối với trường hợp
thành lập đơn vị hành chính cấp xã mới từ nhiều đơn vị hành chính có điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau, việc xác định địa bàn ưu đãi đầu tư được thực hiện theo
nguyên tắc đa số. Cụ thể, xã mới sẽ được xác định thuộc loại địa bàn ưu đãi đầu
tư tương ứng với đa số số lượng xã trước khi sắp xếp. Trường hợp số xã thuộc
các loại địa bàn khác nhau bằng nhau thì việc xác định ưu đãi đầu tư sẽ được áp
dụng theo hướng ưu tiên mức cao hơn, nhằm bảo đảm tính khuyến khích đầu tư và hỗ
trợ phát triển vùng khó khăn.
Bên cạnh đó, Nghị định số 239/2025/NĐ-CP cũng
quy định UBND cấp tỉnh có trách nhiệm xác định, công bố địa bàn ưu đãi đầu tư
và địa bàn đặc biệt ưu đãi đầu tư ở cấp xã, đồng thời gửi thông tin về Bộ Tài
chính để theo dõi, tổng hợp.
2. Bỏ quy định dự án đầu tư không được gia
hạn thời hạn hoạt động khi tuổi máy móc vượt quá 10 năm.
Về thời hạn hoạt động của dự án đầu tư,
trước đây điểm b khoản 10 Điều 27 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP quy định, các dự
án đầu tư sử dụng máy móc, thiết bị có tuổi vượt quá 10 năm thuộc các Chương 84
và 85 Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam sẽ không được gia hạn thời
hạn hoạt động. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, tiêu chí “máy móc vượt quá
10 năm sử dụng” bộc lộ nhiều bất cập, chưa phản ánh chính xác hiệu quả và
tình trạng kỹ thuật của thiết bị.
Nghị định số
239/2025/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 10 Điều 27 Nghị định số
31/2021/NĐ-CP theo hướng loại bỏ tiêu chí “tuổi vượt quá 10 năm” và thay
thế bằng các tiêu chí kỹ thuật khách quan hơn. Cụ thể, dự án đầu tư không được
gia hạn khi máy móc, thiết bị không đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an
toàn, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường hoặc khi công suất, hiệu suất của
thiết bị còn dưới 85% so với thiết kế, hoặc mức tiêu hao nguyên liệu, năng lượng
vượt quá 15% so với tiêu chuẩn thiết kế. Đối với trường hợp chưa có quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia, các chỉ tiêu kỹ thuật sẽ được xác định theo tiêu chuẩn quốc gia
của Việt Nam hoặc tiêu chuẩn của các nước G7 và Hàn Quốc.
Như vậy, quy định mới này có ý nghĩa quan
trọng trong việc tạo cơ chế linh hoạt, thực chất và khả thi hơn cho nhà đầu tư,
đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và đảm
bảo phát triển bền vững, thay vì chỉ đánh giá dựa trên yếu tố hình thức là “tuổi
đời máy móc”.
3. Sửa đổi quy định về đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu
hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế
Nghị định số 239/2025/NĐ-CP đồng thời sửa
đổi, bổ sung Điều 61 Nghị định số 31/2021/NĐ-CP nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý
cho hoạt động đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu công nghệ số tập trung và khu kinh tế.
Theo quy định mới, việc
đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng các khu này phải phù hợp với quy
hoạch xây dựng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Quy định này giúp bảo đảm
tính đồng bộ, thống nhất trong công tác quy hoạch và triển khai đầu tư, hạn chế
tình trạng đầu tư tự phát, không phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương.
Đáng chú ý, đối với địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn, UBND cấp tỉnh có thể căn cứ tình hình cụ thể để
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc giao cho đơn vị sự nghiệp
có thu làm nhà đầu tư dự án xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công
nghiệp, khu chế xuất hoặc khu công nghệ số tập trung.
Bên cạnh đó, nhà đầu tư dự án xây dựng và
kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao,
khu công nghệ số tập trung và khu chức năng trong khu kinh tế được thực hiện
các quyền quan trọng như: xây dựng nhà xưởng, văn phòng, kho bãi để bán hoặc
cho thuê; định giá và thu các loại phí sử dụng hạ tầng; chuyển nhượng hoặc cho
thuê lại đất đã có hạ tầng kỹ thuật; đồng thời đăng ký khung giá và các loại
phí sử dụng hạ tầng với Ban quản lý khu công nghiệp theo định kỳ. Quy định này
giúp tăng tính chủ động cho nhà đầu tư, tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn
đầu tư, phát triển hạ tầng và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên đây là toàn
bộ nội dung chia sẻ của chúng tôi, xin cảm ơn quý độc giả đã dành thời gian
theo dõi. Nếu có thắc mắc, vui lòng liên hệ với chúng tôi trực tiếp tại Trụ sở
Công ty TNHH XTVN địa chỉ Tầng 8, số 33 Thái Hà, phường Đống Đa, Thành phố Hà Nội
hoặc qua website @www.xtlaw.com.vn.
