+84865766989
Hiện nay nền kinh tế hàng
hóa ngày càng phát triển. Các doanh nghiệp lựa chọn việc thực hiện kinh doanh
hàng hóa ngày càng nhiều. Vì vậy, vấn đề hàng hóa bị làm giả, làm nhái cũng
không còn xa lạ với bên mua cũng như bên bán, nhằm trục lợi trong quá trình mua
bán. Tuy nhiên, việc sản xuất và mua bán hàng giả, hàng nhái là các hành vi vi
phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo quy định.
Sau đây là một số quan điểm, nhận định của Luật sư
thuộc Công ty Luật TNHH XTVN như sau:
1. “Sản xuất
hàng giả” được hiểu như thế nào?
Căn cứ theo khoản 1 Điều
3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
17/2022/NĐ-CP) quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại,
sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì
hành vi “sản xuất” được hiểu như sau:
“Sản xuất” là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động chế tạo, chế bản, in, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất,
tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động
khác làm ra hàng hóa.”
Bên cạnh đó theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ-CP (được sửa
đổi, bổ sung bởi Nghị định 17/2022/NĐ-CP) thì “hàng giả” bao gồm:
“a)
Hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự
nhiên, tên gọi của hàng hóa; hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng hoặc
có giá trị sử dụng, công dụng không đúng so với giá trị sử dụng, công dụng đã
công bố hoặc đăng ký;
b)
Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ
bản hoặc định lượng chất chính tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa
chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với mức tối thiểu quy định tại quy chuẩn kỹ
thuật hoặc tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên
nhãn, bao bì hàng hóa;
...”
Như vậy, “sản xuất hàng giả” có thể được hiểu là hành vi của cá nhân, tổ chức thực hiện
một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in, gia công, đặt hàng,
sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết,
nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng hóa giả, nhằm mục đích lừa dối người tiêu dùng và thu lợi bất chính.
Việc sản xuất hàng giả có thể thực hiện bằng cách làm hàng hóa giống thật về
hình thức nhưng kém chất lượng, hoặc làm giả hoàn toàn bao bì, nhãn hiệu, xuất
xứ, công dụng của sản phẩm. Điểm chung của hành vi này là cố tình tạo ra sự nhầm lẫn cho người
tiêu dùng, khiến họ tưởng mình đang mua hàng thật trong khi thực chất đó là
hàng kém chất lượng hoặc không rõ nguồn gốc.
2. Sản xuất
hàng giả bị xử lý thế nào?
Đối với xử phạt hành chính
Căn cứ theo Điều
10 Nghị định 98/2020/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
17/2022/NĐ-CP) quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng quy định về hành vi sản xuất hàng giả về giá trị
sử dụng, công dụng thì hành vi sản xuất hàng giả về công dụng khi bị cơ quan
chức năng phát hiện sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng tùy
vào loại hàng hóa bị làm giả về công dụng và tùy vào mức độ vi phạm. Bên cạnh
đó, người có hành vi vi phạm còn bị Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động sản xuất vi phạm từ 12 tháng đến 24 tháng.
Đối
với xử lý hình sự
Căn cứ theo Điều 192 Bộ luật Hình sự
2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định tội sản xuất, buôn bán hàng giả
thì người có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả giá trị giá từ 20 triệu đồng
hoặc gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị phạt tiền 100 triệu – 1 tỷ đồng hoặc tù 1 –
5 năm. Nếu hành vi trên có tổ chức, tái phạm, gây chết người, thu lợi lớn...
thì mức phạt tăng lên 5 – 10 năm, thậm chí 7 – 15 năm tùy thuộc vào thiệt hại
mà người có hành vi sản xuất hàng giả gây ra. Ngoài ra, họ còn có thể bị phạt
tiền bổ sung, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu tài sản. Bên
cạnh đó, pháp nhân thương mại vi phạm cũng bị xử lý với mức phạt từ 1 – 9 tỷ
đồng hoặc đình chỉ hoạt động từ 6 tháng đến 3 năm và còn có thể bị cấm kinh
doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ
01 năm đến 03 năm.
Trên đây là toàn bộ, quan điểm của Luật sư thuộc Công ty
Luật TNHH XTVN về vấn đề trên, xin cảm ơn mọi người đã chú ý theo dõi.