Từ ngày 1/1/2026,
việc chở trẻ em dưới 10 tuổi bằng ô tô sẽ phải tuân thủ theo những quy định mới
được quy định trong Nghị đ̣ình 168/2024/NĐ-CP. Những quy tắc này nhằm bảo đảm
an toàn cho trẻ em khi tham gia giao thông, giảm nguy cơ gây tai nạn nghiêm
tròng và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Dưới đây là những điểm cơ bản về
quy định này.
1. Quy định về việc chở trẻ em dưới 10 tuổi
Căn cứ điểm m khoản
3 Điều 6 Nghị định 168/2024/NĐ-CP, quy định về xử phạt, trừ điểm giấy phép
lái xe của người điều khiển xe ô tô, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ, xe
chở hàng bốn bánh có gắn động cơ và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc
giao thông đường bộ khi “Chở trẻ em
dưới 10 tuổi và chiều cao dưới 1,35 mét trên xe ô tô ngồi cùng hàng ghế với người
lái xe (trừ loại xe ô tô chỉ có một hàng ghế) hoặc không sử dụng
thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em theo quy định”.
Theo quy định, trẻ em dưới 10 tuổi và có chiều cao
dưới 1,35 mét không được ngồi cùng hàng ghế với người lái xe, trừ trường hợp xe
chỉ có một hàng ghế. Quy định này nhằm hạn chế tình trạng trẻ em bị ảnh hưởng
bởi các thiết bị điều khiển hoặc chức năng khẩn cấp trên xe. Đối với các loại xe chỉ có một hàng ghế (như xe bán
tải hoặc xe hai chỗ), trẻ em có thể ngồi trên hàng ghế này nhưng phải bảo đảm
sử dụng thiết bị an toàn. Việc sử
dụng thiết bị an toàn là một yêu cầu bắt buộc để đảm bảo trẻ em được bảo vệ tối
đa. Các thiết bị này bao gồm ghế an toàn cho trẻ em, dây đai an toàn, hoặc các
thiết bị phù hợp khác dựa trên lứa tuổi và khối lượng của trẻ. Cụ thể, trẻ em
dưới 1,35 mét hoặc dưới 10 tuổi bắt buộc phải sử dụng ghế an toàn được đặt ở
hàng ghế phía sau. Khi trẻ ngồi trên xe, dây đai an toàn cũng phải được thắt
đúng cách nhằm giảm thiểu rủi ro trong trường hợp xảy ra va chạm.
Nghị
định cũng quy định rõ mức xử phạt hành chính đối với các vi phạm liên quan.
Người điều khiển phương tiện không tuân thủ các yêu cầu về vị trí ngồi hoặc
thiết bị an toàn cho trẻ sẽ bị phạt tiền từ 800.000 đến 1.000.000 đồng. Trong
trường hợp vi phạm nghiêm trọng, có thể bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe
trong một thời gian nhất định. Đây là biện pháp răn đe nhằm nâng cao ý thức
chấp hành quy định pháp luật giao thông đường bộ.
2. Thẩm quyền
xử phạt hành vi tham gia giao thông chở trẻ em dưới 10 tuổi ngồi ghế trước xe ô
tô là ai
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 41 Nghị định
168/2024/NĐ-CP, quy định về phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về
trật tự, an toàn giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ như sau:
“2. Cảnh sát giao thông trong phạm
vi chức năng, nhiệm vụ được giao có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi
phạm quy định tại các điểm, khoản, điều của Nghị định này như sau:
a) Điều 6, Điều 7, Điều 8, Điều 9,
Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 17,
Điều 18, Điều 19, Điều 20, Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 24, Điều 25,
Điều 26, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31, Điều 32, Điều 33, Điều
34, Điều 35, Điều 36;”
Như vậy, từ quy định nêu trên thì cảnh sát giao
thông trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có thẩm quyền xử phạt đối với
hành vi chở trẻ em dưới 10 tuổi ngồi ghế trước xe ô tô.
3. Cá
nhân có hành vi vi phạm chở trẻ em dưới 10 tuổi ngồi ghế trước xe ô
tô có được yêu cầu xử lý phạt tại chỗ hay không?
Căn cứ
tại khoản 1 Điều 56 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định về xử
phạt vi phạm hành chính không lập biên bản như sau:
Xử
phạt vi phạm hành chính không lập biên bản
1.
Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử
phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối
với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính tại chỗ.
Trường
hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản.
Theo
đó, xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp
xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng
đối với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính tại chỗ.
Trường
hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ
thuật, nghiệp vụ thì phải lập biên bản
Như
vậy, từ quy định nêu trên thì trường hợp vi phạm chở trẻ em dưới 10 tuổi ngồi
ghế trước xe ô tô với mức phạt từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng thì cá nhân
có hành vi vi phạm chở trẻ em dưới 10 tuổi ngồi ghế trước xe ô tô không được
yêu cầu xử lý phạt tại chỗ.
Mục
đích của Nghị định 168/2024/NĐ-CP không chỉ là bảo vệ trẻ em mà còn nhằm giảm
thiểu nguy cơ tai nạn giao thông và nâng cao ý thức chấp hành giao thông đồng
thời giảm áp lực lên hệ thống y tế và bảo hiểm xã hội. Đối với trẻ em, quy định
này tăng cường mức độ an toàn, bảo vệ cơ thể non nớt của trẻ trong các trường
hợp khẩn cấp và giúp các em làm quen với kỷ luật giao thông từ nhỏ. Nghị định
168/2024/NĐ-CP là bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo an toàn giao thông,
đặc biệt đối với trẻ em. Chấp hành nghiêm túc các quy định không chỉ giúp phát
triển môi trường giao thông an toàn hơn mà còn thể hiện trách nhiệm của mỗi cá
nhân đối với tương lai của trẻ nhỏ.
Trên
đây là trao đổi của XTVN về “Từ 01/01/2026 ô tô chở trẻ em dưới 10 tuổi cần
lưu ý những gì?”