Công ty luật TNHH XTVN
Gọi Ngay
+84865766989
Chúng tôi luôn làm việc tận tâm trong mọi  Cuộc gọi ngay bây giờ
Hỏi đáp 03 hạn chế của người lập di chúc đối với di sản để lại

03 hạn chế của người lập di chúc đối với di sản để lại

Di chúc là một hình thức thể hiện ý chí cá nhân của một người sau khi chết đối với tài sản của mình. Tuy nhiên, có phải ất kì ai cũng được toàn quyền đối với di chúc không? Liệu người lập di chúc có bị hạn chế gì đối với tài sản khi lập di chúc không?

Thứ nhất, người để lại di chúc phải đáp ứng đủ điều kiện để được lập di chúc

Căn cứ Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về điều kiện để lập di chúc hợp pháp như sau:

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”

Theo đó, một di chúc được coi là hợp pháp chỉ khi:

- Về phía người lập

+ Người này phải có tinh thần minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị cưỡng ép hay đe doạ hay lừa dối.

+ Nếu từ đủ 15 tuổi - chưa đủ 18 tuổi: di chúc phải lập thành văn bản, được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Đồng nghĩa, những người này chỉ đồng ý hoặc không đồng ý cho đối tượng này lập di chúc hay không mà không được can thiệp vào nội dung của di chúc.

+ Người bị hạn chế về thể chất hoặc không biết chữ: Do người làm chứng lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực.

- Về nội dung di chúc: Không vi phạm điều cấm của Luật, không trái đạo đức xã hội.

- Về hình thức của di chúc: Không trái quy định của Luật.

Do đó, không phải mọi trường hợp di chúc đều có hiệu lực và hợp pháp mà người lập di chúc phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện hợp pháp nêu trên khi lập di chúc.

Thứ hai, có một số đối tượng vẫn được hưởng di sản thừa kế mà không phụ thuộc vào di chúc.

Mặc dù người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế cũng như quyết định không cho ai được hưởng thừa kế. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền, lợi ích của những người yếu thế hơn, có một số trường hợp vẫn được hưởng thừa kế dù trong di chúc không có tên. Điều này được quy định tại Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”  

Theo đó, quy định này đã hạn chế một phần quyền của người để lại di chúc,  những người thừa kế trên vẫn được hưởng một phần si sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế dù họ không có tên trong di chúc hoặc có nhưng chỉ được hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó.

Thứ ba về thực hiện nghĩa vụ của người thừa kế

Căn cứ tại Khoản 2 Điều 645 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng:

2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”

Khoản 3 Điều 646 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Di tặng:

3. Sau thời điểm mở thừa kế, người công bố di chúc phải sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc.”

Theo đó, mặc dù người để lại di sản thừa kế qua di chúc có thể phân định một phần di sản của mình cho từng người, dành phần tài sản để di tặng, thờ cúng cũng như giao nghĩa vụ của người thừa kế. Tuy nhiên, việc phân chia di sản thừa kế cho người có tên trong di chúc có thể không được thực hiện theo ý nguyện của người lập di chúc nếu nghĩa vụ tài sản người lập di chúc để lại lớn hơn phần di sản mà người này có

 



Công ty luật TNHH XTVN
Hotline: 0865766989
Công ty luật TNHH XTVN Chat FB với chúng tôi
Công ty luật TNHH XTVN