Trưng cầu giám định là một trong những biện
pháp điều tra nhằm mục đích thu thập tài liệu chứng cứ để giải quyết vụ án hình
sự. Trưng cầu giám định cần phải được tiến hành theo trình tự và thủ tục do
pháp luật tố tụng hình sự quy định, hoạt động trưng cầu giám định hướng tới mục
tiêu thu thập, củng cố chứng cứ, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, xác lập chứng cứ
phục vụ cho hoạt động điều tra và xử lý vụ án hình sự.
Pháp luật hiện hành quy định cụ thể về các
trường hợp bắt buộc phải thực hiện thủ tục trưng cầu giám định hình sự.
Căn cứ khoản 1 Điều 205 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 có quy định:
“1. Khi thuộc một trong các trường hợp quy
định tại Điều 206 của Bộ luật này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.”
Điều 206 của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 quy định về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định
các vấn đề sau:
“1.
Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách
nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi
có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những
tình tiết của vụ án;
2.
Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết
vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về
tính xác thực của những tài liệu đó;
3.
Nguyên nhân chết người;
4.
Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
5.
Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ,
tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;
6. Mức
độ ô nhiễm môi trường.Theo đó, nếu thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì
bắt buộc phải tiến hành hoạt động trưng cầu giám định.”
Theo quy định, thời điểm trưng cầu giám định
có thể thực hiện ngay từ giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến
nghị khởi tố (căn cứ Khoản 3 Điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự 2015).
Như vậy, trưng cầu giám định trong tố tụng
hình sự được thực hiện trong quá trình thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án
hình sự, kết luận trưng cầu giám định trong tố tụng hình sự có ý nghĩa và vai
trò quan trọng trong việc chứng minh tội phạm, là căn cứ để cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá và quyết định khi giải quyết vụ
án, tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm, kết án oan sai cho người vô tội.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng không thực hiện trưng cầu giám định thì người có quyền yêu cầu cơ quan
tiến hành tố tụng trưng cầu giám định gồm hai nhóm chủ thể sau:
- Nhóm thứ nhất là các đương sự, bao gồm:
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và
người đại diện của họ trong vụ án hình sự, ngoại trừ việc giám định liên quan đến quá
trình xác định trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội theo quy định tại Điều
207 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Nhóm thứ hai là người bào chữa, bao gồm:
luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp
viên pháp lý theo quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Ngoài ra, căn cứ Điều 208 Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 quy định về thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải
trưng cầu giám định: Không quá 03 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; không quá 01 tháng đối với trường hợp
quy định tại khoản 3, khoản 6 Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; không quá
09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 của Bộ luật
tố tụng hình sự 2015.
Thời hạn giám định đối với các trường hợp
khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định. Trường hợp việc giám định
không thể tiến hành trong thời hạn quy định thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám
định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu,
người yêu cầu giám định.