Trong thời gian qua hoạt
động “từ thiện” đang là một vấn đề “HOT” được cả cộng đồng quan tâm. Vì
khi có bất kỳ một sự kiện nào xảy ra mà để lại hậu quả nặng nề, thiệt hại cả về
người và của thì không ít cá nhân, tổ chức đứng ra kêu gọi từ thiện với mục
đích để chia sẻ những khó khăn với những cá nhân bị thiệt hại.
“Từ
thiện” là việc làm giúp đỡ, chia sẻ khó khăn với người khác
xuất phát từ tình thương, từ tấm lòng của cá nhân, tổ chức. Không phân biệt người
giàu, người nghèo, vật chất góp nhiều hay góp ít. Từ thiện được thực hiện trên
tinh thần tự nguyện, không phải là nghĩa vụ, không ép buộc trong hoạt động từ
thiện. Suy cho cùng thì các hoạt động từ thiện phải xuất phát từ cái tâm, không
phải vì lợi ích của bản thân, tổ chức. Tuy nhiên, thực tế có không ít những trường
hợp lợi dụng kêu gọi từ thiện để chiếm đoạt số tiền này.
Thời gian vừa qua, do ảnh
hưởng của Cơn bão số 3 (Yagi) và tình hình mưa, lũ lụt, sạt lở ở các tỉnh miền
Bắc đã để lại hậu quả nặng nề, thiệt hại về người và tài sản của người dân,
doanh nghiệp, tổ chức. Người dân trên cả nước, các nhà hảo tâm đã tích cực
quyên góp, ủng hộ, chia sẻ với đồng bão chịu thiện hại từ lũ lụt bằng nhiều
hình thức khác nhau, mua nhu yếu phẩm, hỗ trợ thuyền, áo phao, thuốc men… trong
đó có việc sử dụng tài khoản ngân hàng, nhận tiền mặt hỗ trợ. Tuy nhiên, lợi dụng
việc làm đó đã xuất hiện một số các thủ đoạn gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt
tài sản của bà con, cụ thể:
Theo thông tin từ Sở
Thông tin truyền thông tỉnh Quảng Ninh cho biết, đã phát hiện trạng fanpage giả
mạo trang của Hội Chữ thập đỏ tỉnh Quảng Ninh, đăng tải thông tin nhằm mục đích
chiếm đoạt tài sản bằng cách quyên góp, ủng hộ người dân bị ảnh hưởng bởi cơn
bão số 3.
Đặc biệt, từ chiều tối
ngày 12/09/2024, ngay sau khi trang Fanpage của “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam” thống
kê số tiền ủng hộ qua tài khoản Vietcombank từ ngày 01/09/2024 đến ngày
10/09/2024 (có kèm theo link danh sách sao kê tài khoản của các nhà hảo tâm
trên cả nước), trên mạng facebook đã xuất hiện tràn lan các thông tin cho rằng
các cá nhân, tập thể… kêu gọi tiền từ thiện để ủng hộ đồng bão lũ lụt Cơn bão số
3 nhưng khi số tiền được chuyển vào tài khoản của MTTQ lại không được đúng như
số tiền đã được thông báo công khai, chưa biết thực hư câu chuyện này ra sao,
nhưng nếu đúng có các hành vi “rút bớt”, “cắt xén” tiền từ thiện thì xác định
đây là hành vi vi phạm pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ mà bị xử lý nghiêm
theo quy định.
1.
Trách nhiệm hành chính:
Trường hợp nhận quyên góp
tiền từ thiện của người khác với lý do làm từ thiện nhưng lại không dùng khoản
tiền đó cho mục đích từ thiện mà nhằm mục đích chiếm đoạt thì căn cứ Điều 15
Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng cháy, chữa
cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống bạo lực gia đình.
“Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá
nhân khác
1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những
hành vi sau đây:
b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản;
…
b) Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại
các khoản 1 và 2 Điều này.
4. Biện pháp khắc phục hậu quả:
2. Trách
nhiệm hình sự:
Tội phạm hoàn thành được xác định từ lúc
người phạm tội chiếm giữ được tài sản. Để có căn cứ xử lý hình sự đối tượng kêu
gọi góp tiền từ thiện nhằm mục đích trục lợi, cần xác định “hành vi gian dối để chiếm đoạt tiền từ thiện” có trước hay sau
việc kêu gọi từ thiện.
- Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Điều 174 Bộ luật hình sự 2015, hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác,
thủ đoạn giai dối trong trường hợp kêu gọi quyên góp từ thiện có thể là đưa ra
các thông tin giả để làm cho người khác tin và giao tài sản cho người phạm tội.
“Điều 174.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ
đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến
dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội
này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên
nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị
giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo
quyệt;
…
5. Người phạm tội còn có
thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Mức phạt đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có
thể lên đến 20 năm tù, thậm chí là tù chung thân.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần tài sản
hoặc toàn bộ tài sản.
- Tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
Điều 175 Bộ luật hình sự 2015, hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác rồi dùng thủ đoạn gian
dối để bỏ trốn hoặc chiếm đoạt tài sản đó. Trong trường hợp kêu gọi quyên góp
từ thiện, hành vi chiếm đoạt tài sản có thể là hành vi không thực hiện đúng cam
kết ban đầu, cũng không trả lại số tiền đã quyên góp bằng các thủ đoạn gian dối
như: rút bớt tài sản, giả mạo bằng chứng từ.
“Điều 175. Tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện
một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ
4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội
này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172,
173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài
sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài
sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp
đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến
thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài
sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp
đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả
năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên
nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị
giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo
quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt
tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù
từ 05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt
tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có
thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.
Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản có thể bị phạt tù mức cao nhất từ 12 năm đến 20 năm tù. Ngoài ra, người
phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, bị cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm
hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Do đó, tùy vào tính chất, mức độ của hành vi
vi phạm của các đối tượng mà có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.