Từ
ngày 01/01/2025, Luật Kinh doanh bất động sản 2023 chính
thức có hiệu lực thi hành. Một trong những điểm mới đáng chú ý không thể không
kể đến các quy định về điều kiện kinh doanh bất động sản đối với tổ chức, cá nhân.
Hãy cùng Luật XTVN tìm hiểu về điều kiện để kinh doanh bất động sản là gì và
quy định này có điểm gì mới so với pháp luật hiện hành qua bài viết dưới đây.
1. Điều kiện
về mô hình kinh doanh
Điều
kiện về việc tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp,
hợp tác xã đã được quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật kinh doanh bất động sản 2014.
Tuy nhiên, điểm mới này đã quy định chi tiết hơn, chặt chẽ hơn tại khoản 1 và
khoản 5 Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 và có trường hợp loại trừ tại
khoản 3 và khoản 4 Điều này như sau:
“3. Cá nhân
kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ thì không phải thành lập doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.
4. Tổ chức,
cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công
trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho thuê mua
nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng
dưới mức quy mô nhỏ thì không phải tuân thủ các quy định của Luật này nhưng phải
kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật; trường hợp cá nhân bán, cho thuê
mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình
xây dựng thì còn phải thực hiện công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 5 Điều 44 của Luật này.”
Đồng
thời, từ 2025, đối với cá nhân
kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ mới không phải thành lập doanh nghiệp/hợp
tác xã, các tổ chức, cá nhân khác kinh doanh dịch vụ bất động sản đều phải
thành lập doanh nghiệp/hợp tác xã.
2. Điều kiện về tài chính
Luật Kinh doanh bất động sản 2023 tuy đã lược bỏ
quy định về “vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng” đối với tổ chức
cá nhân thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh bất động sản. Thay
vào đó, từ 2025 điều kiện về tài chính được cụ thể hóa bằng điều khoản tại điểm
a, điểm b khoản 2 Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản 2023 quy định:
“2. Doanh nghiệp
kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Không
trong thời gian bị cấm hoạt động kinh doanh bất động sản, bị tạm ngừng, bị đình
chỉ hoạt động theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền;
b) Bảo đảm tỷ
lệ dư nợ tín dụng, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp trên số vốn chủ sở hữu;”
Cụ thể, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 đã bổ sung một số
điều kiện như: Tỷ lệ dư nợ tín dụng, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp trên số
vốn chủ sở hữu, phân bổ vốn chủ sở hữu để bảo đảm tỷ lệ tối thiểu trên tổng vốn
đầu tư dự án trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đồng thời thực
hiện nhiều dự án. Có thể nói, quy định này đã siết
chặt và phân rõ trường hợp khi đồng thời thực hiện nhiều dự án đầu tư bất động sản.
Ngoài
ra, quy định về doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải có “vốn chủ sở hữu
không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20
ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ
20 ha trở lên” được ghi nhận trong khoản 2 Điều 4 Nghị định 02/2022/NĐ-CP
và 2025 tới đây nhà đầu tư còn phải bảo đảm khả năng huy động vốn để thực hiện
dự án đầu tư. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đồng thời thực hiện
nhiều dự án thì phải có vốn chủ sở hữu đủ phân bổ để bảo đảm tỷ lệ nêu trên của
từng dự án để thực hiện toàn bộ các dự án.
Việc
quy định chặt chẽ giúp sàng lọc các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đủ
năng lực tài chính để tham gia thị trường. Ngoài ra, còn góp phần hạn chế rủi
ro một doanh nghiệp thực hiện nhiều dự án mà không đủ năng lực tài chính như thời
gian qua, gây ra nhiều hệ lụy cho thị trường, người mua; tăng tính “chính thống”
và nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước khi kinh doanh bất động sản.
3.
Điều kiện về chủ thế kinh doanh bất động sản
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật
Kinh doanh bất động sản 2023 thì kinh doanh bất động sản bao gồm cả kinh doanh
dịch vụ bất động sản. Theo đó kinh doanh dịch vụ bất động sản bao gồm kinh
doanh các dịch vụ: sàn giao dịch bất động sản, môi giới bất động sản, tư vấn bất
động sản, quản lý bất động sản (khoản 2 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản
2023).
Thứ nhất, điều kiện về chủ thế kinh doanh dịch
vụ môi giới bất động sản. Khác
với Luật Kinh doanh bất động sản 2014, từ ngày 01/01/2025, đối với các cá nhân
hành nghề môi giới bất động sản phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động
sản và phải hành nghề trong một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất
động sản hoặc một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản. Bên cạnh
đó, doanh nghiệp môi giới bất động sản chỉ cần 1 người có chứng chỉ hành nghề. Điều
này được quy định tại điểm c khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 61 Luật Kinh doanh
bất động sản 2024 như sau:
“c) Có tối thiểu 01 cá nhân có chứng chỉ môi giới bất động sản;
…
b) Phải hành nghề trong một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
sàn giao dịch bất động sản hoặc một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi giới bất
động sản.”
Điểm mới này sẽ loại bỏ nhiều môi giới bất động
sản không chuyên, tạo ra môi trường kinh doanh bất động sản lành mạnh, minh bạch,
theo đúng chủ trương của Chính phủ.
Thứ hai, điều kiện về chủ thể kinh doanh dịch vụ
tư vấn, dịch vụ quản lý bất động sản thì Luật Kinh doanh bất
động sản 2023 có một quy định riêng tại Điều 67 cụ thể như sau:
“1. Tổ chức,
cá nhân kinh doanh dịch vụ tư vấn, dịch vụ quản lý bất động sản phải thành lập
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản theo quy định tại khoản 5 Điều 9 của Luật này. Trường hợp kinh doanh dịch vụ
quản lý nhà chung cư, tòa nhà hỗn hợp có nhà ở thì phải có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật về nhà ở.
2. Trước khi
hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tư vấn, dịch vụ quản lý
bất động sản phải gửi thông tin về doanh nghiệp đến cơ quan quản lý nhà nước về
kinh doanh bất động sản cấp tỉnh nơi thành lập doanh nghiệp để được đăng tải
trên hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản theo quy định của
Luật này.”
Khoản 1 nêu
trên đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 74 và khoản 2 Điều 75 Luật Kinh doanh
bất động sản 2014 và khoản 2 là một quy định hoàn toàn mới, qua đó thể hiện sự
quản lý chặt chẽ, minh bạch, công khai khi doanh nghiệp đi vào hoạt động kinh
doanh dịch vụ tư vấn, dịch vụ quản lý bất động sản.