Hiện nay, khi có một khoản
tiền chưa sử dụng, người dân thường lựa chọn biện pháp an toàn là gửi tiết kiệm,
sinh lời ổn định. Tuy nhiên, gần đây có một số vụ mất tiền đã xảy ra tại ngân
hàng khiến người dân lo lắng, hoang mang. Vậy theo quy định của pháp luật, ai
là người phải chịu trách nhiệm khi chủ tài khoản bị mất tiền trong tài khoản tại
ngân hàng?
I.
Mất tiền do lỗi của chủ tài khoản.
Theo điểm g khoản 2 Điều 5 Văn bản
hợp nhất 15/VBHN-NHNN ngày 28/12/2020 quy định:
“Điều
5. Quyền và nghĩa vụ của chủ tài khoản thanh toán.
2.
Chủ tài khoản thanh toán có nghĩa vụ sau:
g)
Chịu trách nhiệm về những thiệt hại do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa đảo khi sử
dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản do lỗi của mình;”
Ngoài ra, tại khoản 2,
Điều 5 Thông tư 23/2014/TT-NHNN hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh
toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thì chủ tài khoản có nghĩa vụ: Kịp
thời thông báo cho tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nơi mở tài khoản khi có
phát hiện thấy có sai sót, nhầm lẫn trên tài khoản của mình hoặc nghi ngờ tài
khoản của mình bị lợi dụng, hoàn trả hoặc phối hợp với tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán hoàn trả các khoản tiền do sai sót, nhầm lẫn đã ghi có vào tài khoản
thanh toán của mình. Chịu trách nhiệm về những thiệt hại do sai sót hoặc bị lợi
dụng, lừa đảo khi sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản do lỗi của mình.
Người gửi tiền qua tài
khoản tại Ngân hàng đã được nhân viên của Ngân hàng giải thích, tư vấn về việc
quản lý, sử dụng tài khoản. Nhưng không ít trường hợp bị kẻ gian lợi dụng lừa đảo
thực hiện các thao tác theo họ yêu cầu, cung cấp mã OTP, mật khẩu, dẫn đến việc
bị mất quyền truy cập, họ có thể can thiệp, xử lý và thay đổi nhiều thông tin
như vị trí, lịch sử, danh bạ, tin nhắn…
Trường hợp số tiền trong
tài khoản ngân hàng thiệt hại do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa đảo khi sử dụng
dịch vụ thanh toán qua tài khoản do lỗi của chủ tài khoản thì chủ tài khoản phải
hoàn toàn chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra. Phía Ngân hàng không có lỗi nên
không phải chịu trách nhiệm.
II.
Mất tiền gửi tại Ngân hàng không phải do lỗi của chủ tài khoản.
Theo quy định, khách hàng
gửi tiền vào ngân hàng thì đây là một dạng hợp đồng gửi giữ tài sản, thông qua
giao dịch gửi tiền ngân hàng thì giữa khách hàng và ngân hàng xác lập một hợp đồng
gửi giữ tài sản.
-
Điều 554 và Điều 557 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Điều 554. Hợp đồng gửi giữ tài sản
Hợp đồng gửi giữ tài sản
là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo
quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, bên gửi
phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công
Điều 557. Nghĩa vụ của bên giữ tài sản
1. Bảo quản tài sản theo
đúng thỏa thuận, trả lại tài sản cho bên gửi theo đúng tình trạng như khi nhận
giữ.
2. Chỉ được thay đổi cách
bảo quản tài sản nếu việc thay đổi là cần thiết nhằm bảo quản tốt hơn tài sản
đó, nhưng phải báo ngay cho bên gửi biết về việc thay đổi.
3. Thông báo kịp thời cho
bên gửi biết về nguy cơ hư hỏng, tiêu hủy tài sản do tính chất của tài sản đó
và yêu cầu bên gửi cho biết cách giải quyết trong một thời hạn; nếu hết thời
hạn đó mà bên gửi không trả lời thì bên giữ có quyền thực hiện các biện pháp
cần thiết để bảo quản và yêu cầu bên gửi thanh toán chi phí.
4. Phải bồi thường thiệt
hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.”
- Tại khoản 2 Điều 10
Luật Các tổ chức tín dụng 2010 quy định:
“Điều 10. Trách nhiệm của
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc bảo vệ quyền lợi
của khách hàng.
“…2 Tạo thuận lợi cho
khách hàng gửi và rút tiền, bảo đảm thanh toán đủ, đúng hạn tiền gốc, lãi của
khoản tiền gửi theo thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật.
- Tại Điểm g, khoản 2
Điều 6 Văn bản hợp nhất 15/VBHN-NHNN ngày 28/12/2020 quy định:
“Điều 6 Quyền và nghĩa vụ
của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
2. Tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán có nghĩa vụ:
g, Chịu trách nhiệm về
những thiệt hại do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa đảo trên tài khoản thanh toán
của khách hàng do lỗi của mình.”
Như vậy, khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng tức là giữa
hai bên đã ký kết một hợp đồng gửi giữ tài sản, bên giữ tài sản tức là bên ngân
hàng phải có nghĩa vụ bảo quản tài sản đúng thỏa thuận, trả lại tài sản cho bên
gửi theo đúng tình trạng như khi nhận giữ, phải bồi thường thiệt hại nếu những
thiệt hại (mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ) do sai sót hoặc bị lợi dụng, lừa
đảo trên tài khoản thanh toán của khách hàng do lỗi của mình.
- Khoản 1 Điều 584 Bộ
luật dân sự quy định:
“Điều 584, Căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1. Người nào có hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Như vậy, khi khách hàng bị mất tiền trong tài khoản ngân hàng
mà không phải do lỗi của khách hàng gây ra thì ngân hàng phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm, bồi thường cho khách hàng kịp thời tránh ảnh hưởng tới uy tín. Do
đó, cần xác định rõ ai là người gây thiệt hại về tài sản là người đó phải bồi
thường.
Trường hợp Ngân hàng
thoái thác không nhận trách nhiệm, không bồi thường cho khách hàng thì khách
hàng hoàn toàn có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu ngân hàng phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại cho khách hàng.