Đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động là quyền của người lao động và người sử dụng
lao động, tuy nhiên việc đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động phải đúng theo
quy định của pháp luật. Vậy khi người sử dụng lao động, đơn phương chấm dứt Hợp
đồng lao động trái pháp luật thì phải có nghĩa vụ như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 39 Bộ Luật
Lao động năm 2019 có quy định như sau: “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật là trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy
định tại các Điều
35, 36 và 37 của Bộ luật này”.
Vậy người sử dụng lao
động được đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trong trường hợp nào?
Căn cứ theo quy định
tại Điều 36 Bộ luật lao động năm 2019 thì người sử dụng lao động được quyền đơn
phương chấm dứt Hợp đồng lao động trong các trường hợp sau:
“Điều 36. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của
người sử dụng lao động
1.
Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong
trường hợp sau đây:
Khi sức khỏe của người lao
động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng
lao động với người lao động;
d)
Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều
31 của Bộ luật này;
đ)
Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều
169 của Bộ luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
e)
Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc
liên tục trở lên;
g)
Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại khoản
2 Điều 16 của Bộ luật này khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển
dụng người lao động.”
Theo đó, khi người sử dụng lao động chấm dứt Hợp
đồng lao động mà không thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì việc chấm dứt đó được xem là trái pháp luật. Khi
chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật người sử dụng lao động có nghĩa vụ
sau:
Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả
cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc
làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.
Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong
hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để
sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy
định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật này thì
phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong
những ngày không báo trước.
2. Trường hợp người lao động
không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1
Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều
46 của Bộ luật này để chấm dứt hợp đồng lao động.
3. Trường hợp người sử dụng
lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài
khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này
và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường
thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng
lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.”
Trên
đây là ý kiến tư vấn của XTVN liên quan đến yêu cầu tư vấn của Quý khách trên
cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật. Hy vọng ý kiến tư vấn của XTVN sẽ hữu
ích cho Quý khách.